SỎI TUYẾN NƯỚC BỌT
BS. Lê Lý Trọng Hưng
BS. Trần Thanh Tùng
BS. Nguyễn Thị Thu Anh
I. GIỚI THIỆU
Sỏi tuyến nước bọt là một tình trạng lành tính và là nguyên nhân thường gặp nhất gây sưng tuyến nước bọt.
Trong một số trường hợp, sỏi tuyến nước bọt có thể làm tắc bán phần hoặc tắc nghẽn hoàn toàn các ống dẫn tuyến nước bọt, dẫn đến viêm tuyến nước bọt, thậm chí áp xe.
Có nhiều triệu chứng biểu hiện khác nhau, trong đó phổ biến nhất là sưng tuyến bị ảnh hưởng theo chu kỳ sau bữa ăn và giảm lượng nước bọt.
II. NGUYÊN NHÂN
Hai nguyên nhân chính gây nên sự hình thành sỏi tuyến nước bọt bao gồm:
- Giải phẫu (do hẹp ống dẫn hoặc viêm)
- Thành phần nước bọt (tăng nồng độ canxi hoặc thay đổi chức năng enzym)
Ngoài ra, thuốc lá được cho là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn hình thành sỏi nước bọt vì có thể gây viêm trong ống dẫn nước bọt và làm giảm sản xuất amylase nước bọt.
III. DỊCH TỄ HỌC
Sỏi tuyến nước bọt thường gặp ở nam giới từ 30-60 tuổi.
Sỏi tuyến nước bọt ở tuyến dưới hàm là vị trí phổ biến nhất của bệnh sỏi nước bọt, chiếm 85%. Kế đến là sỏi ở tuyến mang tai 15% và dưới 5% xảy ra ở tuyến nước bọt dưới lưỡi và tuyến nước bọt phụ.
Nguyên nhân, sỏi ống dẫn nước bọt dưới hàm phổ biến là do ống dẫn tuyến dưới hàm thường đi lên về phía lỗ mở trong khoang miệng, dẫn đến dòng nước bọt dễ bị ứ đọng. Ngoài ra, tuyến dưới hàm chủ yếu tiết ra nước bọt nhầy, nhớt hơn dịch do tuyến mang tai tạo ra, dẫn đến dòng dịch tiết ứ đọng hơn. Tuyến dưới hàm cũng tiết ra nhiều nước bọt có tính kiềm hơn, tạo điều kiện cho sự kết tủa của các muối vô cơ (ví dụ canxi và photphat), tiếp tục dẫn đến hình thành sỏi tuyến nước bọt.
IV. SINH LÝ BỆNH
Cơ chế bệnh sinh chính xác của bệnh sỏi tuyến nước bọt chưa được hiểu rõ nhưng có hai lý thuyết nổi bật đã được đề xuất.
- Một là do có nhiều vi hạt bên trong các hạt tiết của tuyến nước bọt. Khi những vi hạt này được tiết vào ống dẫn nước bọt, chúng có thể đóng vai trò là nơi hình thành các sỏi lớn hơn, cuối cùng tạo thành sỏi nước bọt.
- Thứ hai là vi khuẩn hoặc mảnh vụn thức ăn trong khoang miệng xâm nhập vào các ống dẫn dưới hàm hoặc tuyến mang tai ở xa. Theo thời gian, chất nền hữu cơ này có thể đóng vai trò là nơi hình thành các lớp sỏi lớn hơn.
V. LÂM SÀNG
Đôi khi bệnh nhân không có triệu chứng do sỏi chưa gây tắc nghẽn ống dẫn nước bọt.
Trường hợp sỏi gây tắc nghẽn ống dẫn nước bọt sẽ dẫn đến viêm tuyến nước bọt, thường 1 bên, đau tăng khi ăn.
Khám thực thể sẽ cho thấy tình trạng sưng tấy không đối xứng của tuyến nước bọt bị sỏi. Thông thường, sỏi nằm ở phần xa của ống tuyến dưới hàm (ống Wharton) nếu đủ lớn có thể sờ thấy rõ khi khám khoang miệng.
Sỏi nước bọt thường có hình bầu dục hoặc hình tròn và có màu trắng hoặc vàng khi kiểm tra bằng mắt.
VI. SIÊU ÂM
Sỏi tuyến nước bọt thường biểu hiện dạng dưới dạng đường hoặc chấm tăng âm mạnh kèm bóng lưng. Tuy nhiên, sỏi <2mm thường không có bóng lưng.
Trường hợp tắc nghẽn cấp tính sẽ thấy tuyến nước bọt to, giãn ống dẫn nước bọt đoạn gần.
Cần chẩn đoán phân biệt sỏi với bóng khí lẫn nước bọt trong ống Wharton.
VI. ĐIỀU TRỊ
Điều trị bảo tồn:
- Xoa bóp tuyến nước bọt
- Thuốc chống viêm không steroid
- Thuốc kích thích nước bọt.
- Thuốc kháng sinh khi có các dấu hiệu nhiễm trùng, bao gồm hạch cổ, chảy mủ từ ống dẫn nước bọt hoặc ban đỏ xung quanh ống dẫn nước bọt.
Việc điều trị tiếp theo sẽ được quyết định dựa trên kích thước, số lượng và vị trí của sỏi nước bọt nếu việc điều trị bảo tồn không thành công.
- Những sỏi dưới hàm di động có kích thước nhỏ hơn 5 mm nằm trong ống ngoại vi nên được điều trị ban đầu bằng nội soi.
- Sỏi dưới hàm bị ảnh hưởng trong ống ngoại vi và sỏi lớn hơn 5 mm nên được điều trị bằng rạch ống qua ngã miệng.
- Những viên sỏi có kích thước từ 5 đến 7 mm trong ống đoạn gần hoặc vùng trung tâm nên được điều trị ban đầu bằng nội soi. Nếu điều này không thành công hoặc viên sỏi bị lèn chặt, bước tiếp theo là phương pháp phẫu thuật xuyên qua.
Tán sỏi ngoài bằng sóng xung kích (ESWL) là một lựa chọn cho những sỏi không sờ thấy được hoặc nhìn thấy được dưới nội soi.
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến dưới hàm nên là biện pháp cuối cùng.
VII. TIÊN LƯỢNG
Sỏi nước bọt có tiên lượng tốt và phần lớn bệnh nhân có thể được điều trị bảo tồn bằng thuốc lợi nước bọt (sialogogues) và thuốc chống viêm không steroid. Các thủ tục xâm lấn tối thiểu được thảo luận ở trên có tỷ lệ thành công tuyệt vời với tỷ lệ mắc bệnh tối thiểu so với các kỹ thuật phẫu thuật truyền thống. Cắt bỏ tuyến nước bọt để điều trị sỏi tuyến nước bọt hiếm khi cần thiết với các kỹ thuật điều trị hiện đại.
Các biến chứng chính của bệnh sỏi nước bọt là sự phát triển của viêm tuyến nước bọt cấp tính hoặc mãn tính và teo tuyến nước bọt bị ảnh hưởng.
Tỉ lệ tái phát của sỏi tuyến nước bọt sau khi điều trị nội soi hoặc cắt tuyến dưới hàm hai bên là khoảng 9-10% (2,3)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hammett JT, Walker C. Sialolithiasis. [Updated 2022 Sep 26]. In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2024 Jan-. Available from: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK549845/
- Ying X, Kang J, Zhang F, Dong H. Recurrent sialoliths after excision of the bilateral submandibular glands for sialolithiasis treatment: A case report. Exp Ther Med. 2016 Jan;11(1):335-337. doi: 10.3892/etm.2015.2849. Epub 2015 Nov 10. PMID: 26889264; PMCID: PMC4726928.
- Capaccio P, Gaffuri M, Canzi P, Pignataro L. Recurrent obstructive salivary disease after sialendoscopy. A narrative literature review. Acta Otorhinolaryngol Ital. 2023 Apr;43(Suppl 1):S95-S102. doi: 10.14639/0392-100X-suppl.1-43-2023-12. PMID: 37698106; PMCID: PMC10159639.